Phát triển xã hội
Trên thế giới, các lý thuyết phát triển xã hội cố gắng giải thích những thay đổi về chất trong các cấu trúc và cơ cấu xã hội, để xã hội thực hiện tốt hơn mục đích và mục tiêu của nó. Phát triển có thể được định nghĩa để áp dụng cho tất cả các xã hội ở tất cả các giai đoạn lịch sử như một chuyển động tăng dần lên đến cấp độ cao hơn của hiệu quả, chất lượng, năng suất; gia tăng tính phức tạp, sự hiểu biết, sự sáng tạo, năng lực làm chủ, những nhu cầu và thành tựu(1). Phát triển là một quá trình thay đổi xã hội, không chỉ đơn thuần là một tập hợp các chính sách và các chương trình lập ra nhằm đạt được một số kết quả cụ thể(2).
Đặc tính của phát triển xã hội là tính khuynh hướng của quá trình phát triển. Các nghiên cứu về phát triển, không chỉ ghi nhận các sự kiện mà là cần phải tính tới sự chi phí thời gian cụ thể, trình độ, tình trạng và nhịp độ phát triển.
Nhiều tác giả đã đưa ra quan niệm về phát triển xã hội. “Phát triển xã hội là thúc đẩy một cách bền vững xã hội xứng đáng với phẩm giá con người bằng cách trao quyền cho các nhóm yếu thế, phụ nữ và nam giới, để họ có thể tìm được cách thức riêng cải thiện cộng đồng của họ về địa vị kinh tế và để họ có được vị trí xứng đáng trong xã hội...” (Bilance, 1997). “Phát triển xã hội là bình đẳng về cơ hội xã hội” (Amartya Sen, 1995).
Trong khi chưa có một định nghĩa cụ thể, nhiều tổ chức quốc tế chỉ đưa ra các lĩnh vực, các tiêu chí cho phát triển xã hội. Hội nghị thượng đỉnh về Phát triển xã hội tại Copenhagen (Đan Mạch) năm 1995, xác định phát triển xã hội gồm ba tiêu chí cơ bản: Xoá đói giảm nghèo; Việc làm; Công bằng xã hội
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) đưa ra ba chỉ số phát triển xã hội: Chỉ số phát triển con người (HDI); Chỉ số người nghèo (HPI); Chỉ số phát triển giới (GDI).
Bilance, Cơ quan phát triển Hà Lan đưa ra ba thành phần của phát triển xã hội: Cuộc chiến chống nghèo đói; Phát triển bởi những người cùng chia sẻ (nhóm, tổ chức, cộng đồng); Một vị trí xứng đáng trong xã hội.
Ba lĩnh vực của hoạt động (trong phát triển xã hội): Dịch vụ cơ bản; Sự tồn tại của phương tiện; Nhân quyền và Dân chủ vùng.
Ba điểm đo cố định cho phát triển xã hội:Giới; Phát triển bền vững; Sự gắn kết xã hội.
Quan điểm của World Bank(3) về phát triển xã hội
World Bank đặt trọng tâm chú ý trong nội hàm phát triển xã hội là các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và cho rằng: “Phát triển là kết quả của năng lực của xã hội trong tổ chức các nguồn lực để đáp ứng những thách thức và cơ hội”. Hoặc “Phát triển xã hội là đáp ứng những nhu cầu xã hội”, là “Đổi mới tư duy về các chính sách và đầu tư công nhằm đạt được các kết quả phát triển công bằng và bền vững hơn về mặt xã hội”.
World Bank đã đề xuất một “khung phát triển toàn diện” về phát triển xã hội, trong đó xác định rõ nội hàm phát triển xã hội, gồm: Giảm nghèo; đầu tư vào con người, y tế, giáo dục; tăng trưởng kinh tế; di sản văn hóa và phát triển xã hội; minh bạch và chống tham nhũng; bình đẳng và phát triển; công lý và phát triển; tiếng nói và tri thức trong phát triển xã hội; quyền tiếp cận tài sản; bảo vệ phụ nữ và những người dễ bị tổn thương; xung đột và phát triển...
Trên cơ sở nhận thức về phát triển xã hội như đã nêu trên, WB và IMF đã đề xuất các nguyên lý phát triển xã hội, như sau:
(1) Phát triển xã hội được xem xét trong phạm vi xã hội rộng lớn nhất. Chính là sự vận động đi lên của xã hội từ cấp độ nhỏ đến lớn hơn của những năng lượng, hiệu quả, chất lượng, sản lượng, tính phức tạp, mức độ hoàn thiện, tính sáng tạo, sự lựa chọn, quyền làm chủ, mức độ hưởng thụ và mức độ hoàn thiện. Phát triển của các cá nhân và các xã hội làm tăng thêm mức độ tự do lựa chọn và tăng năng lực hoàn thiện các lựa chọn bằng năng lực và sáng kiến riêng.
(2) Tăng trưởng và phát triển thường song hành với nhau, nhưng chúng là những hiện tượng khác nhau, phụ thuộc vào quy luật riêng. Phát triển liên quan đến sự chuyển hóa chất lượng theo chiều dọc của cấp độ tổ chức.
(3) Phát triển xã hội được điều khiển bởi ý chí, khát vọng từ trong tiềm thức đến kinh nghiệm đến ý thức của xã hội. Quá trình phát triển xã hội diễn ra nơi ý chí đủ mạnh, đủ chín muồi, đã tích lũy đủ năng lượng và tìm cách thể hiện. Quá trình phát triển xã hội sẽ thành công trước hết ở các lĩnh vực mà xã hội đã nhận thức rõ ràng các cơ hội, các thách thức, có ý chí tận dụng cơ hội và vượt qua các thách thức.
(4) Bản chất của quá trình phát triển là các thể chế và các tổ chức xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, nhằm khai thác và hướng các nguồn lực xã hội cho sự hoàn thiện xã hội ở cấp độ cao hơn với các hệ thống thể chế và các giá trị văn hóa tạo thành một mạng lưới cấu trúc xã hội.
(5) Phát triển là một quá trình chứ không phải là một chương trình, và là một quá trình không giới hạn.
(6) Con người là nguồn lực quyết định và nhân tố quyết định cuối cùng của phát triển. Phát triển là quá trình, trong đó con người ngày càng nhận thức rõ các tiềm năng, các sáng kiến sáng tạo của mình và tận dụng các cơ hội để hiện thực hóa các tiềm năng, các sáng kiến đó. Tiềm năng của con người là vô tận, tiềm năng phát triển cũng vô tận. Các chiến lược phát triển cần hướng đến giải phóng tiềm năng và sáng kiến sáng tạo của con người, chứ không phải thay thế cho các tiềm năng và sáng kiến sáng tạo đó.
Trong khi chưa có sự đồng thuận về định nghĩa sự phát triển xã hội, mà chủ yếu được hiểu là bao gồm một tập hợp các mục tiêu, World Bank đồng tình với nội hàm phát triển xã hội mà Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Xã hội (WSSD) năm 1995 nêu ra, coi bản chất của phát triển xã hội là quá trình tăng lên: Tài sản và khả năng của cá nhân để cải thiện phúc lợi của họ; Năng lực của các nhóm xã hội trong thay đổi các mối quan hệ của họ với các nhóm khác và tham gia vào quá trình phát triển; Khả năng của xã hội trong việc hài hòa lợi ích của các yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội, quản lý hòa bình các quá trình xung đột và sự thay đổi.
Ba vấn đề mà World Bank coi là “bản chất của phát triển xã hội” có thể được diễn giải cụ thể hơn, thành một loạt các vấn đề nhỏ. Thí dụ, để tăng lên tài sản và phúc lợi của con người (cá nhân và cộng đồng) không thể thiếu các nội dung về phát triển kinh tế, quản lý các quá trình sản xuất, phân phối và giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội... Vấn đề thứ hai đã bao hàm những những nội dung như: cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, sự hình thành các tổ chức xã hội và mạng lưới của các tổ chức ấy (xã hội công dân), các cơ chế trao quyền và tăng tính hợp pháp của các tổ chức công dân trong quá trình phát triển xã hội. Vấn đề thứ ba đã chứa đựng những nội dung như: công bằng, bình đẳng, quản lý xã hội và quản lý xung đột xã hội.
GS, TS Hoàng Chí Bảo(4) đưa ra các hướng tiếp cận về phát triển xã hội, như sau:
- Mục đích phát triển xã hội: Là vấn đề nâng cao mức sống và chất lượng sống của con người (cá nhân và cộng đồng), thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Phương tiện phát triển xã hội: Phát triển về số lượng và chất lượng các nguồn lực, các điều kiện, nhằm đáp ứng tốt hơn các vấn đề xã hội.
- Phương thức phát triển: Là sự giải quyết kịp thời, đúng đắn, hợp lý các vấn đề nảy sinh trong đời sống của cộng đồng dân cư, từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến môi trường.
Cuốn sách Một số vấn đề cấp thiết trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn nước ta hiện naydo PGS TS Nguyễn Chí Dũng (chủ biên) cho rằng phát triển xã hội là tạo điều kiện, đảm bảo, đáp ứng để giải quyết và thực hiện sáu nội dung trong khái niệm xã hội ấy(5).
PGS TS Lưu Văn An - tác giả cuốn Lý thuyết và mô hình phát triển xã hội, định nghĩa: “Phát triển xã hội là kết quả mà xã hội đạt được khi tạo dựng được đầy đủ khả năng cần thiết trong tổ chức các nguồn nhân lực, tài lực và vật lực để khắc phục các thách thức và tranh thủ các cơ hội mà cuộc sống đem lại trong suốt tiến trình lịch sử”(6).
Như vậy, có sự tương đồng giữa quan niệm của nhiều nhà khoa học Việt Nam với Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội năm 1995 và quan điểm của Ngân hàng thế giới. Các tiêu chí mà các tổ chức quốc tế đưa ra một mặt phản ánh quan niệm của các tổ chức về phát triển xã hội, mặt khác có thể đo lường được sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, các tiêu chí chỉ đo được một số lĩnh vực nhất định, trong khi phát triển xã hội là tổng hợp của nhiều lĩnh vực.
Từ các quan niệm trên cho thấy, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế có cách tiếp cận về xã hội và phát triển xã hội khá đồng nhất với nhau. “Phát triển xã hội” là một phạm trù bao hàm các nội dung sau:
(1) Sự biến đổi về chất trên lĩnh vực kinh tế, tạo ra các điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội.
(2) Trên cơ sở các tiền đề phát triển kinh tế, phát triển xã hội là cải thiện chất lượng dân số, giải quyết một cách cơ bản vấn đề lao động, việc làm; tăng phúc lợi xã hội, tăng cơ hội cho toàn dân đối với chữa bệnh, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học; tạo ra nguồn vốn con người cho phát triển.
(3) Sự biến đổi về chất các thể chế xã hội (cơ cấu xã hội, liên kết xã hội - xã hội công dân và phân tầng xã hội...), nâng cao địa vị pháp lý, vai trò các tổ chức, các nhóm xã hội chính thức và không chính thức để họ có đủ các quyền tham gia tích cực, bình đẳng và hiệu quả trong giải quyết những vấn đề xã hội, phát huy vốn xã hội.
(4) Thiết lập sự công bằng, bình đẳng và bình đẳng giới trong đời sống xã hội.
(5) Bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, thực hiện an sinh xã hội (trong đó có bảo trợ văn hóa, nghệ thuật, khoa học - công nghệ, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thất bại của thị trường...).
(6) Ổn định xã hội, giữ vững an toàn, trật tự xã hội; tạo dựng khả năng của xã hội trong việc quản lý hòa bình các quá trình xung đột và sự thay đổi; đảm bảo quyền công dân, quyền con người.
(7) Môi trường sinh thái được bảo vệ, việc khai thác tài nguyên được thực hiện một cách bền vững.
Theo đó, chúng ta có thể định nghĩa: Phát triển xã hội là quá trình phát triển con người xã hội, con người cộng đồng, con người trong sự liên hiệp tự do và bình đẳng về quyền và cơ hội; là làm cho con người được sống trong những điều kiện ngày càng đầy đủ về vật chất và tinh thần trong một môi trường tự nhiên và xã hội trong sạch, lành mạnh, an toàn; làm cho con người có đủ sức khỏe, tri thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để sống, lao động và hoàn thiện mình, xứng đáng là Con người, trong các quá trình lịch sử của một quốc gia dân tộc và của toàn nhân loại.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2015
(1) http://en.wikipedia.org/wiki/Social_development_theory
(2) http://www.sml.zhaw.ch/en/management/institutes centers/dib/continuing-education/cas-corporate-responsibility-social-management.html
(3) web.worldbank.org
(4) GS, TS Hoàng Chí Bảo (chủ biên): Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.35.
(5) PGS, TS Nguyễn Chí Dũng (chủ biên): Một số vấn đề cấp thiết trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010, tr.27.
(6) PGS TS Lưu Văn An: Lý thuyết và mô hình phát triển xã hội,Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, tr.14.
GS, TSKH Phan Xuân Sơn
Viện Chính trị học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
- Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
- Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
- Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 3 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 4 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 5 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
- 6 Hội thảo “Ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động các đơn vị chức năng của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
Chính sách phân quyền là một trong những xu hướng đáng chú ý trong chính sách giáo dục trên toàn thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism - một trường phái kinh tế và chính trị tập trung vào việc giảm sự can thiệp của chính phủ trong kinh tế và thúc đẩy tự do kinh doanh và thị trường). Phân quyền được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định về chính sách, kế hoạch, điều hành và phân bổ nguồn lực từ Bộ đến các sở và các trường học. Cơ cấu quản lý như vậy sẽ tăng cường quyền tự chủ và năng lực cạnh tranh giữa các trường, nhưng cũng có thể gia tăng khoảng cách giữa mục tiêu giáo dục và thành tích học tập. Trong bối cảnh quản lý tập trung của Việt Nam, câu hỏi liệu việc phân quyền có thể giúp giáo dục đại học giải quyết các vấn đề về chất lượng, sự bình đẳng và trách nhiệm giải trình hay không vẫn chưa được trả lời thỏa đáng. Vì vậy, bài báo này sẽ làm rõ một số vấn đề về chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học và bài học kinh nghiệm từ một số nước qua thực tế triển khai.
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương của các doanh nhân; tinh thần tự giác, phấn đấu vươn lên, có ý thức trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nhân; lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần tương thân, tương ái, có ước mơ, khát vọng vươn lên; trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, tinh thần phục vụ nhân dân của doanh nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất 4 giải pháp để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam.
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Giải pháp chủ động phòng ngừa, ứng phó các nguy cơ an ninh phi truyền thống, trọng tâm đảm bảo an ninh mạng, an ninh thông tin trong bối cảnh thế giới đại chuyển đổi dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trong bối cảnh thế giới đại chuyển động dưới ảnh hưởng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống đã trở thành những yếu tố bất ổn, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đồng thời, đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo thống kê của Liên hợp quốc, an ninh phi truyền thống đang đối mặt với hàng chục mối đe dọa. Trong đó, có những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm như khủng bố, ma túy, tin tặc, thảm họa môi trường, dịch bệnh, mua bán người, di cư trái phép, đặc biệt là vi phạm chủ quyền không gian mạng, an ninh không gian mạng, tội phạm công nghệ cao… cần có các giải pháp hữu hiệu để chủ động phòng ngừa, ứng phó. Trên tinh thần đó, các giải pháp được tác giả nhấn mạnh bao gồm về nguồn nhân lực, vật lực, chính sách, đặc biệt là giải pháp công nghệ.
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Chăm lo đời sống nhân dân - những thành quả không thể phủ nhận
Nhằm bảo đảm bản chất dân chủ thật sự của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định, cần phải để nhân dân không chỉ được “biết”, được “bàn”, được “làm”, được “kiểm tra”, được “giám sát” việc ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, mà quan trọng hơn là phải được “thụ hưởng” những thành quả của tiến trình phát triển đất nước. Trên tinh thần ấy, những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng và luôn nỗ lực thực hiện các chính sách xã hội, chăm lo đời sống mọi mặt cho các tầng lớp nhân dân.
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Tiếp cận về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước là một trong các chỉ số quan trọng để đo lường về bình đẳng giới. Vấn đề này được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm và thể hiện trong các chiến lược phát triển của quốc gia, địa phương hướng tới sự phát triển bền vững, lâu dài. Bài viết nghiên cứu về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam với khái niệm, cách tiếp cận và một số vấn đề cần quan tâm.
Bình luận