Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao và cấp bách nhằm đáp ứng sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của Đảng là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, mà trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan lập pháp đã tập trung thực hiện công tác xây dựng pháp luật, trong đó, chú trọng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhiều bộ luật, xây dựng các luật quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường, dân tộc, tôn giáo, y tế, quốc phòng - an ninh, trật tự, an toàn xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn... nhằm tạo lập hệ thống pháp lý vững chắc, lành mạnh, hiệu lực, hiệu quả, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, công tác xây dựng pháp luật đã có những kết quả rất tích cực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ tháng 5/2005 đến tháng 8/2021, Quốc hội đã ban hành hơn 300 văn bản pháp luật (mỗi năm trung bình khoảng 19 văn bản); trong khi, 20 năm đổi mới trước đó (1986-2005) mới ban hành tổng số 140 văn bản pháp luật, trung bình mỗi năm khoảng 7 văn bản (1).
Xây dựng pháp luật là hoạt động phức hợp bao gồm nhiều hoạt động nối tiếp nhau theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền với chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Mỗi giai đoạn trong quy trình xây dựng pháp luật được hoàn thành là một lần củng cố thêm tính logic, khoa học, phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Xây dựng pháp luật là một trong những phương diện hoạt động quan trọng nhất của Nhà nước, nhằm mục đích trực tiếp tạo ra các quy phạm pháp luật, cũng như sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy phạm một cách phù hợp nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội đang diễn ra. Hiểu một cách khái quát, xây dựng pháp luật là hoạt động soạn thảo, ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội.
2. “Diễn biến hòa bình” là khái niệm đã được nhiều công trình nghiên cứu, đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiểu một cách phổ biến và khái quát: “diễn biến hòa bình” là diễn biến dần dần, đi đến cuối cùng chuyển sang một chế độ chính trị khác, không qua bạo lực (thường nói về chiến lược không dùng chiến tranh mà dùng hàng loạt phương thức và thủ đoạn, nhằm tạo ra một quá trình diễn biến hòa bình để lật đổ chế độ chính trị ở nước khác)(2).
“Diễn biến hoà bình” trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam là hoạt động của các thế lực thù địch thông qua các phương thức, thủ đoạn phi quân sự tác động, can thiệp, gây sức ép vào quá trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, từ đó, hướng lái, chuyển hóa, tiến tới thay đổi bản chất hệ thống pháp luật và chế độ chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay, lĩnh vực xây dựng pháp luật được coi là tâm điểm công phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Bởi, pháp luật không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là vấn đề sống còn của chế độ chính trị, của thượng tầng kiến trúc xã hội.
Hệ thống pháp luật nước ta thể hiện vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng; ý chí, bản chất chính trị của Nhà nước, là công cụ để quản lý, điều hành xã hội, duy trì trật tự, kỷ cương, pháp chế của Nhà nước. Do đó, thế lực thù địch luôn hướng tới mục tiêu chi phối quá trình lập pháp, gây sức ép, tác động, chuyển hóa, hướng lái hệ thống pháp luật Việt Nam theo ý đồ của chúng là thay đổi bản chất hệ thống pháp luật Việt Nam theo quan điểm giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây; tạo cơ sở, hành lang pháp lý cho việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, thay đổi bản chất giai cấp, bản chất chế độ chính trị của hệ thống pháp luật, tiến tới thay đổi chế độ chính trị của Nhà nước ta (?!).
3. Trong thực tiễn hiện nay, các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ở Việt Nam với các phương thức, thủ đoạn rất đa dạng, có thể chỉ ra các thủ đoạn phổ biến sau:
Thứ nhất, thông qua tài trợ các chương trình, dự án hợp tác về xây dựng pháp luật với nguồn kinh phí lớn trong vỏ bọc hỗ trợ xây dựng pháp luật nhưng lại đưa ra những yêu cầu, khuyến nghị sửa đổi pháp luật, can thiệp, tác động vào quá trình xây dựng, ban hành pháp luật của Việt Nam, nhất là trong giai đoạn dự thảo chương trình, đề án, dự án xây dựng luật, giai đoạn soạn thảo luật và thảo luận, giai đoạn tiếp thu, chỉnh lý, thông qua dự án luật. Mặt khác, các thế lực thù địch lợi dụng việc triển khai các dự án, chương trình tài trợ, hội nghị, hội thảo với vỏ bọc hỗ trợ các cơ quan có chức năng lập pháp Việt Nam xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thu thập thông tin có giá trị về hệ thống pháp luật Việt Nam phục vụ cho mục đích tác động, hướng lái pháp luật Việt Nam theo ý đồ của họ…
Thứ hai, tìm cách quan hệ, móc nối, tiếp xúc với cán bộ làm việc tại các cơ quan tham mưu, hoạch định, xây dựng chính sách, pháp luật, với mục đích tác động, hướng lái pháp luật Việt Nam, như mời cán bộ thuộc các cơ quan lập pháp, tư pháp của Việt Nam đi tham quan, nghiên cứu mô hình hệ thống tư pháp ở nước ngoài nhằm tác động làm thay đổi quan điểm, tư tưởng, nhận thức; thậm chí tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước.
Thứ ba, tác động, kích động các đối tượng chống đối, bất mãn tuyên truyền, phê phán việc xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung, hệ thống pháp luật nói riêng và công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Chẳng hạn, hoạt động lấy danh nghĩa tài trợ cho giới luật gia Việt Nam mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho luật sư trong nước để tác động, khuyến khích họ phát biểu, phê phán hệ thống pháp luật Việt Nam; lôi kéo số luật gia có trình độ, có uy tín nhưng có tư tưởng đa nguyên, những đối tượng chống đối, có dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm, chính sách, pháp luật Việt Nam, tuyên truyền các quan điểm pháp lý tư sản.
Thứ tư, lợi dụng các hiệp định thương mại, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia để tác động, yêu cầu sửa đổi pháp luật. Gần đây nhất là việc nước ta ký kết tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó cài ẩn một số điều khoản tạo tiền đề pháp lý để các “tổ chức xã hội” trong nước phát triển, dần tự do và thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam, tiến tới hình thành tổ chức chính trị đối lập.
Thứ năm, đưa ra các tuyên bố, kiến nghị tập thể, kích động biểu tình, gây rối để tuyên truyền, gây sức ép đến các cơ quan nhà nước mỗi khi có những chính sách, pháp luật mới được ban hành hoặc trong quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật nhằm mục đích gây bất ổn tình hình chính trị - xã hội. Thông qua các cơ chế dân chủ, nhân quyền, các phiên đối thoại song phương, các tổ chức nước ngoài đưa ra những đánh giá sai lệch rằng, pháp luật Việt Nam không bảo đảm các cam kết quốc tế, yêu cầu Việt Nam phải sửa đổi pháp luật theo ý đồ của họ. Chẳng hạn, như yêu cầu Việt Nam phải sửa đổi, ban hành các luật liên quan đến thể chế chính trị, thể chế kinh tế, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, quyền con người... Bên cạnh đó, lợi dụng các vụ, việc phức tạp về an ninh, trật tự trong nước, các đối tượng phản động bên ngoài móc nối với các đối tượng chống đối trong nước tuyên truyền, xuyên tạc tình hình, tạo dư luận tiêu cực, phản đối chính sách, pháp luật, kích động biểu tình, bạo loạn…
Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan, ban, ngành và các lực lượng chức năng, mà nòng cốt là lực lượng an ninh nhân dân, đã chủ động tổ chức công tác phòng ngừa, phát hiện, sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp đấu tranh hết sức linh hoạt và hiệu quả đối với hoạt động “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật. Nhờ đó, các đơn vị chức năng đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu, hoạt động can thiệp, tác động, chuyển hóa quá trình xây dựng pháp luật ở nước ta. Cũng qua thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh, đã góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về âm mưu, phương thức, thủ đoạn, sự nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Trên cơ sở đó, từng bước đổi mới tư duy, quan điểm, biện pháp để vừa phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả mà vẫn có thể góp phần phục vụ tích cực cho chủ trương đẩy mạnh hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút các nguồn lực, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nói chung và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Trong 5 năm qua, với các biện pháp nghiệp vụ, lực lượng an ninh Việt Nam đã phát hiện một số cá nhân, tổ chức có hoạt động “diễn biến hòa bình” đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật cụ thể và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền không gia hạn, yêu cầu sửa đổi giấy đăng ký hoạt động đối với hàng ngàn lượt tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam; kiến nghị không cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc rà soát, loại bỏ hàng chục tổ chức phi chính phủ nước ngoài vì lý do an ninh. Trong đó có nhiều hoạt động, dự án tiềm ẩn nguy cơ cao về an ninh quốc gia; phát hiện một số chuyên gia, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “chệch hướng tư tưởng”…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật ở nước ta còn có một số hạn chế nhất định. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được một số cơ quan, ban, ngành chức năng quan tâm đúng mức. Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động xây dựng pháp luật còn chưa thực sự chặt chẽ nên chưa phát hiện từ xa, từ sớm âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên là do: Nhận thức của một số cán bộ, lãnh đạo cơ quan, ban, ngành về âm mưu, hoạt động, phương thức, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật ở Việt Nam của các thế lực thù địch vẫn chưa đầy đủ, sâu sắc, thậm chí còn lơ là, mất cảnh giác trước các hoạt động có dấu hiệu can thiệp, tác động, chuyển hóa; công tác quản lý nhà nước, công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp tiến hành phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật còn chưa kịp thời và hiệu quả; việc triển khai các biện pháp phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật chịu áp lực từ yếu tố chính trị, đối ngoại…
4. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật thời gian tới, các cơ quan, ban, ngành chức năng, trong đó, nòng cốt là lực lượng an ninh nhân dân các cấp cần nghiên cứu, triển khai thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật. Cần quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp theo Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,… gắn với chủ động phòng ngừa các nguy cơ đe dọa xâm hại an ninh quốc gia, đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Trong đó, hoàn thiện đồng bộ thể chế, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là một trong những đột phá chiến lược; bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng, an ninh và liên quan đến quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Chủ động kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền loại bỏ các yếu tố có thể trở thành điều kiện để các thế lực thù địch gia tăng hoạt động móc nối, tác động, can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật ở nước ta. Đồng thời, các cơ quan tư pháp, cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cần chú trọng nắm tình hình những yếu tố liên quan tới dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “chệch hướng tư tưởng” của một số cán bộ, đảng viên trong nội bộ, vấn đề “dân chủ nghị trường”, “phản biện chính sách” để kịp thời tham mưu lãnh đạo các cấp có các biện pháp phòng ngừa, răn đe, chấn chỉnh, xử lý, tránh gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị nội bộ, ảnh hướng đến công tác xây dựng pháp luật.
Ba là, chú trọng công tác vận động quần chúng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về âm mưu, hoạt động, phương thức, thủ đoạn, sự nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong xây dựng pháp luật ở nước ta. Thời gian tới, các cơ quan chức năng cần phối hợp chỉ đạo các cơ quan báo chí tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong quần chúng nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng. Tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là phổ biến rộng rãi các dự thảo luật đang được xây dựng, định hướng dư luận xã hội về nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của các văn bản luật đối với xã hội, với người dân; đồng thời, vạch trần âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch lợi dụng quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Chú trọng việc tổ chức tập huấn, tọa đàm, sinh hoạt chính trị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên làm việc tại các cơ quan lập pháp, tư pháp; cơ quan tiếp nhận, thụ hưởng các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về xây dựng pháp luật; cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật; cơ quan tiến hành hợp tác quốc tế về xây dựng pháp luật; luật sư trong các liên đoàn luật sư, hội luật gia... Tích cực phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong xây dựng pháp luật.
Bốn là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong xây dựng pháp luật, đặc biệt là về hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật. Các cơ quan, ban, ngành hữu quan cần thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong xây dựng pháp luật. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức nước ngoài, nhất là các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và trong nước đã, đang hoặc chuẩn bị đầu tư thực hiện các dự án, chương trình về xây dựng pháp luật của Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần phối hợp, tham gia thẩm định các dự án, chương trình có dấu hiệu phức tạp trong việc hỗ trợ xây dựng pháp luật, cảnh báo, khuyến nghị kịp thời âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch đến các cơ quan, đơn vị hoạch định chính sách. Quản lý chặt chẽ công tác hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật, các hội nghị, hội thảo quốc tế, các chương trình tài trợ, dự án liên quan đến xây dựng pháp luật tại Việt Nam. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư và các tổ chức nghề nghiệp, nhất là số đối tượng khoác áo “cấp tiến” trong nước có mối quan hệ, tiếp xúc với cá nhân, tổ chức nước ngoài; các đối tượng xấu, có quan điểm sai trái, thù địch./.
_____________________________________________________
(1) Xem: Báo cáo tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005, của Bộ Chính trị khóa IX, “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
(2) Viện Ngôn ngữ học (2003): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 256.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 23/11/2022
Bài liên quan
- Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
- Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
- Bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng qua việc nghiên cứu tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 4 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 5 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 6 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Một số vấn đề đặt ra với chuyên ngành Báo ảnh tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo cử nhân chuyên ngành Báo ảnh lâu đời nhất tại Việt Nam, cung cấp cho hệ thống chính trị nhiều phóng viên ảnh có lý tưởng, chuyên môn cao, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bước vào thời kỳ xã hội thông tin và chuyển đổi số, chuyên ngành Báo ảnh gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn. Bài báo đặt ra một số vấn đề với chuyên ngành Báo ảnh và đưa ra một số khuyến nghị nhằm vượt qua thách thức, tận dụng thời cơ để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo.
Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”(1). Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam và trở thành phương châm hành động của Đảng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã lợi dụng truyền thông, mạng xã hội để tiến hành các hoạt động chống phá nhằm gây hoang mang tâm lý, xáo trộn về nhận thức, mơ hồ về tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là giới trẻ. Do đó, công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được Đảng ta rất chú trọng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước những luận điệu chống phá nguy hiểm của các thế lực thù địch.
Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân sinh ra chủ quan và suy thoái về tư tưởng chính trị, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa sự tồn vong của Đảng.
Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Bảo vệ nền tảng tư tưởng (BVNTTT) của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trong những năm qua, đặc biệt, từ khi Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường BVNTTT của Đảng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Nghị quyết số 35-NQ/TW) được ban hành, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (BC&TT) luôn tham gia tích cực vào công tác BVNTTT của Đảng. Trên cơ sở các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và thực tiễn của Học viện, bài viết tập trung làm rõ phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BVNTTT của Đảng ở Học viện BC&TT trong thời gian tới. Từ khóa: Học viện BC&TT; nền tảng tư tưởng của Đảng; BVNTTT của Đảng.
Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dùng internet, mạng xã hội thuộc nhóm cao nhất trên thế giới. Internet và mạng xã hội giúp chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt được các thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau, song đây cũng chính là công cụ được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước triệt để lợi dụng nhằm ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Bài viết làm rõ những thách thức trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng từ xu hướng phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội hiện nay, từ đó làm rõ những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.33/21-25.
Bình luận