Phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng
Bảo đảm an toàn, an ninh mạng được xác định là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng trong điều kiện, bối cảnh hiện nay. Công tác này phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục với những cơ chế, chính sách phù hợp.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng phần lớn các sự cố an ninh mạng của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều do con người trực tiếp hoặc gián tiếp vi phạm, bỏ qua các chính sách bảo mật thông tin. Giáo sư Robert McClelland, Phó trưởng khoa Kinh doanh và Quản trị Đại học RMIT cho rằng, việc vượt qua thách thức bảo toàn an ninh thông tin đòi hỏi không chỉ các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mà còn cần quản trị yếu tố con người. Ông cũng khẳng định yếu tố con người được xem là mắt xích yếu nhất trong việc tạo ra môi trường kỹ thuật số an toàn và bảo mật.
Tại Việt Nam, những năm qua, các cấp có thẩm quyền đã ban hành các chính sách về an toàn, an ninh mạng; các chiến lược, đề án về an ninh mạng đã được xây dựng. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt được nhiều kết quả tích cực, nhất là đối với hệ thống mạng thông tin quốc gia, hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; đấu tranh có hiệu quả với vi phạm pháp luật về an toàn, an ninh mạng. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng đối với hệ thống mạng thông tin quốc gia; bảo vệ uy tín, hình ảnh của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên không gian mạng. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về an ninh mạng.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, như: Nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng, sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo về an toàn, an ninh mạng còn chưa cao. Hành lang pháp lý và hệ thống pháp luật về an toàn, an ninh mạng chưa hoàn thiện. Công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh mạng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, đặc biệt đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch xuyên biên giới. Hoạt động tấn công mạng gia tăng. Tình trạng thu thập trái phép, mua bán thông tin, dữ liệu cá nhân vẫn diễn biến phức tạp. Tội phạm sử dụng công nghệ cao tiếp tục có chiều hướng tăng...
Khảo sát gần đây cho thấy chỉ có 17% doanh nghiệp Việt Nam được xếp ở giai đoạn triển khai nâng cao và sẵn sàng giải quyết các rủi ro bảo mật; 23% doanh nghiệp chuẩn bị tốt về dữ liệu; 31% doanh nghiệp chuẩn bị tốt về thiết bị cho giải quyết các vấn đề bảo mật; 53% tổ chức, doanh nghiệp mới đang ở giai đoạn bắt đầu. Điều này cho thấy việc chuẩn bị và mức độ sẵn sàng cho giải quyết vấn đề an ninh mạng chưa cao. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng thời gian qua.
Theo các chuyên gia, nếu người dùng nhận thức đầy đủ và có kỹ năng bảo vệ an toàn thông tin cơ bản thì có thể tự phòng tránh được tới hơn 80% nguy cơ mất an toàn thông tin khi tham gia không gian mạng. Trên thực tế, nhận thức của nhiều cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng trong cộng đồng hiện nay còn nhiều tồn tại, hạn chế, chưa đủ để tự bảo vệ mình trước những mối đe dọa về an toàn thông tin. Nhiều người dùng chưa có các kỹ năng bảo vệ an toàn thông tin, phòng tránh lây nhiễm mã độc; sử dụng các phần mềm lậu, truy cập các trang web không uy tín, hoặc không sử dụng các phần mềm bảo vệ thiết bị.
Tại phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia ngày 25/8, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, không gian mạng đã trở thành không gian chiến lược; phải chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng, không để bị động, bất ngờ. Đồng thời, phải có sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, người dân; trong đó Ban Chỉ đạo, Văn phòng Ban Chỉ đạo, các Tiểu ban An toàn, An ninh mạng, các lực lượng bảo đảm an toàn, an ninh mạng là nòng cốt, là trực tiếp.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng, cần đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức về bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Thực hiện có hiệu quả Quyết định 1907/QĐ-TTg ngày 23/11/2020 về Đề án Tuyên truyền, nâng cao nhận thức và phổ biến kiến thức về an toàn thông tin giai đoạn 2021 - 2025. Tăng cường giáo dục các quy định của pháp luật về quản lý không gian mạng; cách thức nhận diện các âm mưu, thủ đoạn tấn công mạng và các hình thái tiêu cực phát sinh trên không gian mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Nâng cao hiệu quả điều hành, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia. Tiếp tục bám sát các nhiệm vụ trọng tâm (an ninh mạng; an toàn thông tin mạng; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên không gian mạng; đấu tranh xử lý thông tin xấu, độc). Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, để công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng chuyển biến mạnh mẽ hơn, thực chất hơn, hiệu quả hơn. Tham mưu cho cấp có thẩm quyền hoàn thiện các chính sách về an toàn, an ninh mạng, thực hiện các chiến lược, đề án về an ninh mạng.
Phát huy vai trò nòng cốt của các lực lượng chuyên trách và các lực lượng tham gia trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Nắm chắc tình hình có liên quan đến hoạt động bảo vệ an toàn, an ninh mạng; phòng, chống tấn công và bảo vệ hoạt động ổn định của hệ thống thông tin quan trọng; ngăn chặn hoạt động sử dụng không gian mạng nhằm gây phương hại an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động tấn công vô hiệu hóa mục tiêu trên không gian mạng nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Nâng cao trách nhiệm và các kỹ năng cần thiết về an toàn, an ninh mạng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng. Tuyệt đối tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ an toàn, an ninh mạng. Kịp thời cung cấp thông tin liên quan đến bảo vệ an toàn, an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an toàn, an ninh mạng, hành vi xâm phạm an ninh mạng cho cơ quan có thẩm quyền, lực lượng bảo vệ an ninh mạng. Thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ an toàn, an ninh mạng; giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp bảo vệ an toàn, an ninh mạng.
Chú trọng hơn nữa việc đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện tốt Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng, giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Nghiên cứu, đề xuất thí điểm một số chế độ ưu đãi và chế độ đặc thù đối với lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, nhân sự làm về an toàn thông tin mạng./.
Nguồn: Bài đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03/09/2023
Bài liên quan
- Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
- Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
- Bảo vệ nền tảng lý luận của Đảng qua việc nghiên cứu tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 4 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 5 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 6 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội, tức khách thể của DLXH quy định. Tuy nhiên, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học và văn hóa, tâm lý,… của chủ thể DLXH cũng như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi DLXH diễn ra, đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của DLXH. Do đó, những nhân tố tác động đến quá trình hình thành DLXH có thể khái quát thành ba nhóm: nhóm yếu tố thuộc về khách thể của DLXH; nhóm yếu tố thuộc về chủ thể của DLXH và nhóm yếu tố thuộc về môi trường xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”(1). Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam và trở thành phương châm hành động của Đảng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã lợi dụng truyền thông, mạng xã hội để tiến hành các hoạt động chống phá nhằm gây hoang mang tâm lý, xáo trộn về nhận thức, mơ hồ về tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là giới trẻ. Do đó, công tác tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được Đảng ta rất chú trọng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước những luận điệu chống phá nguy hiểm của các thế lực thù địch.
Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
“Bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân sinh ra chủ quan và suy thoái về tư tưởng chính trị, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa sự tồn vong của Đảng.
Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phương hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Bảo vệ nền tảng tư tưởng (BVNTTT) của Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Trong những năm qua, đặc biệt, từ khi Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường BVNTTT của Đảng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (Nghị quyết số 35-NQ/TW) được ban hành, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (BC&TT) luôn tham gia tích cực vào công tác BVNTTT của Đảng. Trên cơ sở các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và thực tiễn của Học viện, bài viết tập trung làm rõ phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác BVNTTT của Đảng ở Học viện BC&TT trong thời gian tới. Từ khóa: Học viện BC&TT; nền tảng tư tưởng của Đảng; BVNTTT của Đảng.
Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong xu thế phát triển của internet, mạng xã hội
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dùng internet, mạng xã hội thuộc nhóm cao nhất trên thế giới. Internet và mạng xã hội giúp chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt được các thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau, song đây cũng chính là công cụ được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước triệt để lợi dụng nhằm ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Bài viết làm rõ những thách thức trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng từ xu hướng phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội hiện nay, từ đó làm rõ những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng. Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.33/21-25.
Bình luận